Tạp chí Y học Việt Nam | 2021

KẾT QUẢ SỬ DỤNG ỐNG NỐI CÓ VAN TẠO HÌNH ĐƯỜNG RA THẤT PHẢI TRÊN BỆNH NHÂN TIM BẨM SINH TẠI BỆNH VIỆN NHI TRUNG ƯƠNG

 
 
 

Abstract


Mục đích:\xa0 Báo cáo kết quả sớm sau phẫu thuật (PT) sử dụng ống nối có van tạo hình đường ra thất phải trên bệnh nhân tim bẩm sinh tại Bệnh viện Nhi Trung ương năm 2020. Phương pháp: Năm 2020, đã có 1200 ca PT tim mở được tiến hành tại Bệnh viện Nhi Trung ương trong đó có 70 bệnh nhân (5,8%) tim bẩm sinh được sử dụng ống nối có van tạo hình đường ra thất phải. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu cắt ngang, mô tả kết quả sớm sau PT sử dụng ống nối có van trên nhóm bệnh nhân này. Kết quả: Có 44 nam (62,9%) và 26 nữ (37,1%). Trong đó PT sửa toàn bộ thân chung động mạch (15,7%), PT sửa teo và hẹp ĐMP (60%), PT Ross (5,7%), PT thay van phổi sau PT sửa toàn bộ trước đó (18,6%). Ống nối được sử dụng là Contegra (91,4%), Hancock (5,7%), Homograft ĐMP (2,9%) với kích thước trung bình 16 (9 – 25) mm.Tại thời điểm PT, tuổi trung bình là 24,4 ± 33,7 [1 – 171] tháng và cân nặng trung bình là 9,2 ± 6,4 [2,6 – 41,0] kg. Thời gian chạy máy và thời gian cặp chủ trung bình lần lượt là 155 ± 51[72–381] phút và 81 ± 47 [21-209] phút.Tửvong có 5 BN (7,1%): 4 BN tử vong trong thời gian nằm viện, 1 BN tử vong sau khi ra viện 1 tháng do viêm phổi. Các BN còn lại đều được theo dõi tối thiểu 3 tháng sau mổ. Kết quả siêu âm sau mổ thấy tỉ lệ hở phổi trung bình nhẹ (15,7%), không hở hoặc hở rất nhẹ (84,3%). Chênh áp trung bình qua ống nối 10 ± 8 [1-35]mmHg. Kết luận: Sử dụng ống nối có van tạo hình đường ra thất phải trên các bệnh nhân tim bẩm sinh phức tạp tại Bệnh viện Nhi Trung Ương là khả thi. Việc theo dõi lâu dài là hoàn toàn cần thiết.

Volume None
Pages None
DOI 10.51298/vmj.v503i2.808
Language English
Journal Tạp chí Y học Việt Nam

Full Text