Mất bạch cầu hạt, còn được gọi là mất bạch cầu hạt hoặc giảm bạch cầu hạt, là một tình trạng cấp tính và nguy hiểm trong đó số lượng bạch cầu giảm đáng kể. Sự suy giảm này, thường xảy ra ở các tế bào bạch cầu trung tính, tàn phá hệ thống miễn dịch của bệnh nhân, khiến họ có nguy cơ cao bị nhiễm trùng nghiêm trọng. Theo định nghĩa, trong giai đoạn mất bạch cầu hạt, nồng độ tế bào hạt giảm xuống dưới 200 tế bào trên một milimet khối máu.
Nhiều loại thuốc có liên quan đến tình trạng mất bạch cầu hạt, bao gồm thuốc chống động kinh, thuốc kháng giáp, kháng sinh và một số loại thuốc chống loạn thần.
Các triệu chứng mất bạch cầu hạt có thể diễn ra âm thầm hoặc có thể xuất hiện đột ngột kèm theo sốt, ớn lạnh và đau họng. Nhiễm trùng ở một số cơ quan có thể trở nên trầm trọng nhanh chóng (chẳng hạn như viêm phổi, nhiễm trùng đường tiết niệu, v.v.) và thậm chí dẫn đến tiến triển nhanh chóng thành nhiễm trùng huyết.
Hầu hết các trường hợp mất bạch cầu hạt đều liên quan đến việc sử dụng các loại thuốc cụ thể. Các loại thuốc thường gây ra tình trạng này bao gồm:
Các chuyên gia khuyến cáo bệnh nhân dùng các loại thuốc này nên lưu ý đến các triệu chứng nhiễm trùng liên quan đến mất bạch cầu hạt, chẳng hạn như đau họng và sốt.
Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Hoa Kỳ đã theo dõi sự bùng phát bệnh mất bạch cầu hạt ở một số người sử dụng cocaine trong khoảng thời gian từ tháng 3 năm 2008 đến tháng 11 năm 2009 có liên quan đến leflunomide (levamisole) trong việc cung cấp ma túy.
Mất bạch cầu hạt thường được chẩn đoán thông qua xét nghiệm máu toàn diện. Trong quá trình kiểm tra này, số lượng bạch cầu trung tính tuyệt đối thường sẽ nhỏ hơn 500 và thậm chí có thể giảm xuống 0. Để xác nhận tình trạng mất bạch cầu hạt, bác sĩ cần loại trừ các bệnh lý khác có triệu chứng tương tự, chẳng hạn như thiếu máu bất sản hoặc bệnh bạch cầu. Điều này thường bao gồm xét nghiệm tủy xương, cho thấy số lượng và loại tế bào bình thường nhưng thiếu tế bào tiền tủy kém phát triển.
Đối với những bệnh nhân không có triệu chứng nhiễm trùng, việc quản lý bao gồm theo dõi liên tục các xét nghiệm máu, ngừng dùng thuốc nghi ngờ và đưa ra lời khuyên về mức độ nghiêm trọng của cơn sốt. Mặc dù việc truyền bạch cầu hạt có thể được xem xét, vì bạch cầu hạt có thời gian tồn tại rất ngắn trong tuần hoàn (khoảng 10 giờ), tác dụng của phương pháp này thường là tạm thời và có nhiều biến chứng tiềm ẩn.
Một mối nguy hiểm tiềm ẩn của chứng mất bạch cầu hạt là nó có thể phát sinh từ các loại thuốc được sử dụng trong cuộc sống hàng ngày, những tác dụng phụ của chúng thường bị bỏ qua. Khi sự đa dạng của các loại thuốc tăng lên, ngày càng có nhiều bệnh nhân có nguy cơ bị mất bạch cầu hạt. Chúng ta có thực sự hiểu hết những mối nguy hiểm tiềm tàng của loại thuốc chúng ta sử dụng không?