Tra tấn tâm lý, thường được gọi là lạm dụng tâm lý hoặc tra tấn tinh thần, chủ yếu dựa vào các tác động tâm lý, kèm theo tổn hại về thể chất thứ cấp đối với người bị tra tấn. Mặc dù không phải tất cả các hình thức tra tấn tâm lý đều liên quan đến bạo lực thể xác, nhưng vẫn có sự liên tục tương tự giữa tra tấn tâm lý và thể xác. Cả hai thường được sử dụng cùng nhau và thường trùng lặp trong thực tế, trong đó tra tấn thể xác gây ra nỗi sợ hãi và đau đớn có thể dẫn đến hậu quả tâm lý lâu dài, trong khi nhiều hình thức tra tấn tâm lý bao gồm một số hình thức đau đớn hoặc ép buộc.
"Tra tấn là hành vi cố ý gây đau đớn hoặc đau khổ đáng kể, dù là về thể chất hay tâm lý, để lấy thông tin hoặc lời thú tội từ một cá nhân hoặc bên thứ ba khác."
Theo Công ước chống tra tấn của Liên hợp quốc, được thông qua ngày 10 tháng 12 năm 1984 và có hiệu lực vào ngày 26 tháng 6 năm 1987. Công ước yêu cầu các quốc gia thực hiện các biện pháp hiệu quả để ngăn chặn mọi hình thức tra tấn và cấm vận chuyển bất kỳ ai đến một quốc gia nơi có lý do để tin rằng tra tấn có thể xảy ra. Điều này lần đầu tiên dẫn đến một định nghĩa rõ ràng về tra tấn tâm lý và thiết lập khuôn khổ pháp lý quốc tế nhằm bảo vệ nhân quyền.
Các định nghĩa hiện đại về tra tấn tâm lý liên quan đến “các đầu vào và quá trình tấn công hoặc thao túng tâm trí có ý thức để cá nhân vẫn hòa hợp với thế giới xung quanh, giữ quyền kiểm soát và có các điều kiện cần thiết để phán đoán, hiểu biết và đưa ra quyết định tự do”. . Nó là thành phần thiết yếu của bản thân không bị tổn thương."
Có nhiều phương pháp tra tấn tâm lý khác nhau, với mục tiêu phá hủy hình ảnh bình thường của nạn nhân. Các phương pháp bao gồm: tước quyền kiểm soát môi trường, cô lập, thao túng nhận thức, tạo ấn tượng về sự toàn năng, dẫn đến sự bất lực học được, tâm lý. sự thoái lui và lòng tự trọng bị tổn thương; còn bao gồm sự sỉ nhục, cưỡng bức khỏa thân, cạo đầu, cấm ngủ, trùm đầu và các hình thức tước đoạt giác quan khác.
"Hầu hết các phương pháp tra tấn tâm lý đều là gián tiếp, nạn nhân buộc phải chứng kiến cảnh tra tấn của người khác, thường là những người thân thiết."
Năm 1956, nhà tâm lý học Albert Biedermann đã đề xuất ba hành động cơ bản nhằm phá vỡ tinh thần của nạn nhân: sự phụ thuộc, sự yếu đuối và sự sợ hãi. Các lý thuyết của ông đã được phát triển hơn nữa trong hoạt động khuếch đại của CIA. Hầu hết các kỹ thuật tra tấn tâm lý không để lại tổn thương trực tiếp về thể chất, tuy nhiên, chúng có thể gây ra tổn thương tâm lý lâu dài tương tự như tra tấn thể xác.
Ảnh hưởng của tra tấn tâm lý thường rất sâu rộng, nạn nhân phải trải qua các vấn đề tâm lý kéo dài như hội chứng sau chấn thương (PTSD), lo lắng và trầm cảm. Mỹ đã sử dụng rộng rãi các kỹ thuật tra tấn tâm lý ở Vịnh Guantanamo và các khu vực khác sau vụ 11/9. Tính hợp pháp và đạo đức của các biện pháp này đã bị nghi ngờ rộng rãi và nhiều quốc gia trên thế giới đã bị cáo buộc sử dụng các kỹ thuật tra tấn tâm lý tương tự.
Mặc dù Công ước chống tra tấn của Liên hợp quốc được hơn 158 quốc gia ký kết cung cấp cơ sở pháp lý để bảo vệ nạn nhân nhưng trên thực tế, các cơ quan thực thi pháp luật ở nhiều quốc gia vẫn sử dụng những phương pháp này để đạt được mục tiêu của mình bằng mọi giá. Điều này không chỉ liên quan đến vấn đề an ninh quốc gia mà còn gây ra mối lo ngại lớn về nhân quyền.
"Các chuyên gia y tế tham gia vào các hoạt động tra tấn này đã cải tiến các kỹ thuật này và nâng cao hiệu quả của chúng."
Ngày nay, nhiều chuyên gia tâm thần bày tỏ sự phản đối mạnh mẽ đối với các phương pháp này và kêu gọi cộng đồng quốc tế thực hiện hành động hiệu quả để chống lại hành vi không thể chấp nhận được này. Tuy nhiên, trước những quốc gia dùng đến biện pháp tra tấn tâm lý, liệu cộng đồng quốc tế có thể xây dựng được một khuôn khổ pháp lý hiệu quả để bảo vệ nạn nhân khỏi bị tái phạm?