Lửng cầy là loài động vật có vú ăn thịt nhỏ sống trên cạn thuộc họ Herpestidae. Có hai phân họ trong họ này, Herpestinae, bao gồm 23 loài còn tồn tại chủ yếu được tìm thấy ở miền Nam châu Âu, Châu Phi và Châu Á, và Mungotinae, bao gồm 11 loài chủ yếu được tìm thấy ở Châu Phi. Tổ tiên của họ này có thể bắt nguồn từ đầu kỷ Pliocen, khoảng 21,8 triệu năm trước, và sự phân chia di truyền đã xảy ra từ 19,1 đến 18,5 triệu năm trước.
“Cái tên cầy mangut có nguồn gốc từ tên gọi của người Ấn Độ dành cho các loài Herpestes, chẳng hạn như muṅgūs và maṅgūs.”
Lửng cầy có khuôn mặt và thân hình dài, tai nhỏ, tròn, chân ngắn và đuôi dài, thon. Hầu hết lửng cầy đều có màu sọc hoặc xám nâu, và một số loài có hoa văn lông đặc biệt khiến chúng có ngoại hình tương tự như họ chồn. Ngoài ra, móng vuốt không thể thu vào của lửng cầy chủ yếu được dùng để đào bới.
Những loài động vật nhỏ này có mắt với đồng tử hình bầu dục dài và sở hữu tuyến hậu môn lớn, chủ yếu được sử dụng để đánh dấu lãnh thổ và báo hiệu tình trạng giao phối. Lửng cầy có công thức răng là 3.1.3–4.1–23.1.3–4.1–2
, chiều dài cơ thể từ đầu đến thân khoảng 24 đến 58 cm và cân nặng từ 320 g và 5 Giữa kilôgam.
"Người ta tin rằng lửng cầy là một trong ít nhất bốn loài động vật có vú được biết đến có đột biến ở thụ thể acetylcholine axit nicotinic giúp kháng nọc rắn."
Lịch sử phân loại khoa học của lửng cầy có thể bắt nguồn từ năm 1845, khi Charles Lucien Bonaparte đề xuất phân loại lửng cầy vào phân họ gặm nhấm. Sau đó, vào năm 1864, John Edward Grey đã chia lửng cầy thành ba phân họ: Galidiinae, Herpestinae và Mungotinae. Sự phân chia này được Reginald Ines Pocock ủng hộ vào năm 1919, người gọi họ này là Mungotidae. Các nghiên cứu di truyền đã chỉ ra rằng Galidiinae có quan hệ họ hàng gần hơn với các loài ăn thịt ở Madagascar, chẳng hạn như fossa và mèo Malagasy.
Lửng cầy chủ yếu ăn côn trùng, cua, giun đất, thằn lằn, chim và động vật gặm nhấm, ngoài ra còn ăn trứng và xác thối. Một số giống chó có khả năng học những trò đơn giản và đã được thuần hóa và nuôi làm thú cưng để kiểm soát động vật gây hại.
"Ở Lưỡng Hà cổ đại, cầy mangut được coi là loài động vật linh thiêng đối với thần Nikelim."
Ở Lưỡng Hà cổ đại, lửng cầy có mối liên hệ mật thiết với các vị thần bảo vệ con người khỏi loài rắn. Theo một câu tục ngữ của người Babylon, khi một con chuột trốn thoát đến một hang rắn gần một con lửng cầy, nó sẽ nói: "Tôi mang đến cho bạn lời chào từ người bắt rắn!" Lửng cầy cũng xuất hiện trong nghệ thuật phù điêu của người Babylon cổ đại, mặc dù Tầm quan trọng của nó vẫn chưa rõ ràng.
Ngoài vai trò trong tự nhiên, lửng cầy còn có một vị trí trong văn học. Trong số đó, "Riki-Tiki-Tavi", một truyện ngắn được Rudolph Kipling viết trong The Jungle Book, kể về câu chuyện của một chú lửng cầy cứu gia đình mình khỏi một con rắn độc. Câu chuyện này đã tạo nên nhiều bộ phim và bài hát và vẫn còn hấp dẫn cho đến ngày nay. Ngoài ra, trong tác phẩm Cuộc phiêu lưu của một người đàn ông cong queo của Arthur Conan Doyle, loài cầy mangut được nhắc đến như một nhân vật chính ở phần kết.
Ở Hoa Kỳ, việc nuôi lửng cầy làm thú cưng bị cấm, chủ yếu dựa trên mối đe dọa tiềm tàng của chúng đối với hệ sinh thái địa phương.
Khi tầm quan trọng về mặt văn hóa và sinh thái của loài lửng cầy ngày càng tăng, liệu chúng ta có nên đánh giá lại vị trí và vai trò của những loài săn mồi nhỏ bé này trong hệ sinh thái lớn hơn không?