Trong thế giới ngày nay, phát triển bền vững đã trở thành sự đồng thuận toàn cầu, đặc biệt là đối với sinh kế của các nhóm dễ bị tổn thương. Đây không chỉ là vấn đề tăng trưởng kinh tế mà còn là sự cân nhắc đến phúc lợi của con người. Khái niệm sinh kế bền vững, bắt nguồn từ sự giao thoa giữa nghiên cứu phát triển và môi trường, mang đến một cách suy nghĩ mới về công việc, sản xuất và phân phối, đặc biệt là đối với các nhóm thu nhập thấp và cộng đồng bản địa sống dưới mức nghèo đói.
Định nghĩa về sinh kế bền vững phản ánh sự hiểu biết sâu sắc mới về nghiên cứu về đói nghèo: nó không chỉ tập trung vào các biểu hiện vật chất của đói nghèo mà còn bao gồm các yếu tố như tình trạng dễ bị tổn thương và loại trừ xã hội.
Từ bền vững phản ánh khả năng tự cung cấp bền vững cho bản thân của một cá nhân. Dưới những cú sốc hoặc áp lực khác nhau, chỉ số bền vững không chỉ là sự sống còn mà còn là khả năng phục hồi sau khó khăn và duy trì hoặc cải thiện sinh kế.
Khung sinh kế bền vững cung cấp một cấu trúc cho hành động giảm nghèo toàn diện tập trung vào các cơ hội phát triển lấy con người làm trung tâm, năng động và có sự tham gia của con người. Khái niệm này xây dựng cầu nối giữa môi trường và con người, cho phép mọi người cùng chung sống hòa thuận. Trong số các Mục tiêu Phát triển Bền vững (SDG) do Liên Hợp Quốc đề xuất cho năm 2030, tất cả 17 mục tiêu đều hướng tới mục tiêu đảm bảo một thế giới bền vững, nơi "không ai bị bỏ lại phía sau", điều này cho thấy tầm quan trọng của chúng.
Tuy nhiên, do tác động của đại dịch COVID-19, tiến độ thực hiện tất cả 17 mục tiêu đã bị chậm trễ đáng kể, đòi hỏi thế giới phải đối mặt với những thách thức này theo cách hợp tác hơn.
Khái niệm về sinh kế bền vững lần đầu tiên được đề xuất trong bối cảnh nông thôn và sau đó được Ủy ban Brundtland sửa đổi, nơi đã mở rộng thêm khái niệm này tại Hội nghị Liên hợp quốc về Môi trường và Phát triển năm 1992, coi việc đạt được sinh kế bền vững là Để đạt được mục tiêu rộng lớn là xóa đói giảm nghèo. Năm 1992, Robert Chambers và Gordon Conway đã đề xuất một định nghĩa toàn diện về sinh kế nông thôn bền vững.
“Sinh kế bao gồm các khả năng, tài sản (tiết kiệm, nguồn lực, quyền yêu cầu và mua lại) và các hoạt động cho phép nó phát triển; để bền vững, sinh kế phải có khả năng đối phó và phục hồi sau những căng thẳng và cú sốc và để duy trì hoặc tăng cường năng lực và tài sản của mình.”
Nhiều tổ chức đã kết hợp các khái niệm về sinh kế bền vững vào các nỗ lực xóa đói giảm nghèo đang diễn ra của họ. Các cách tiếp cận của các mô hình này đối với tính bền vững thích ứng được minh họa bằng các tổ chức chính sau đây:
Các Mục tiêu Phát triển Bền vững (SDG) do Liên hợp quốc đề xuất năm 2015 bao gồm nhiều lĩnh vực, trong đó có xóa đói giảm nghèo. Mỗi mục tiêu đặt ra các mục tiêu cụ thể và được theo đuổi trên toàn quốc, cộng đồng và cấp độ cá nhân. Đây là một nỗ lực toàn cầu.
SCDF có mục đích xác định các vấn đề trong cộng đồng khó khăn và đề xuất các giải pháp xóa đói giảm nghèo trong cộng đồng. Khung này tập trung vào việc trao quyền cho cộng đồng để họ tự đưa ra quyết định và tạo ra môi trường để giải quyết các vấn đề một cách lâu dài.
Chương trình Phát triển của Liên hợp quốc sử dụng phương pháp tiếp cận sinh kế bền vững để phát triển, đánh giá các loại vốn khác nhau, bao gồm vốn con người, vốn xã hội, v.v. UNDP thiết kế các sáng kiến trên mọi phương diện để thúc đẩy phát triển và giúp mọi người ứng phó với những cú sốc bên ngoài.
CARE, tập trung vào cứu trợ khẩn cấp và các dự án phát triển dài hạn, đã xây dựng Khung an ninh sinh kế gia đình vào năm 1994 để theo dõi hiệu quả hoạt động của mình tốt hơn, thoát khỏi phân khúc ngành truyền thống và tập trung nhiều hơn vào các kỹ thuật phát triển toàn diện.
Bộ Phát triển Quốc tế Vương quốc Anh (DFID) cam kết xóa bỏ tình trạng nghèo đói cùng cực và cung cấp giải pháp toàn diện bằng cách tích hợp Khung sinh kế bền vững, đúng như tên gọi, hướng đến phương pháp tiếp cận năng động, đa cấp, lấy con người làm trung tâm để liên tục thúc đẩy cải thiện tình trạng nghèo đói.
Nhìn chung, sinh kế bền vững không chỉ là một phương pháp luận mà còn là kỳ vọng cho tương lai. Liệu những nỗ lực như vậy có thực sự giúp các cộng đồng dễ bị tổn thương đang phải đối mặt với nhiều thách thức khác nhau tiến tới một ngày mai tốt đẹp hơn không?