Viêm não do virus herpes simplex (HSE) là một bệnh viêm não do virus herpes simplex gây ra. Mặc dù bệnh này tương đối hiếm gặp nhưng có khả năng gây tử vong. Người ta ước tính rằng cứ 500.000 người thì có khoảng 1 người bị ảnh hưởng mỗi năm, một số nghiên cứu cho thấy cứ 100.000 ca sinh thì có khoảng 5,9 ca mắc HSE.
90 phần trăm các trường hợp HSE là do virus herpes simplex miệng loại 1 (HSV-1) gây ra, đây cũng là loại virus gây ra bệnh mụn rộp.
Theo ước tính năm 2006, có khoảng 57% người lớn ở Hoa Kỳ bị nhiễm HSV-1, nhưng hầu hết những người bị nhiễm này không bao giờ phát triển các triệu chứng của bệnh mụn rộp. Các trường hợp còn lại là do virus herpes simplex sinh dục loại 2 (HSV-2) gây ra, thường lây truyền qua đường tình dục. Khoảng hai phần ba các trường hợp HSE xảy ra ở những cá nhân đã có huyết thanh dương tính với HSV-1, chỉ 10% trong số họ có tiền sử bị herpes miệng tái phát và khoảng một phần ba các trường hợp là do nhiễm trùng HSV-1 ban đầu. chủ yếu xảy ra ở những người trẻ dưới 18 tuổi.
Khoảng một nửa số người trên 50 tuổi mắc bệnh HSE. Mặc dù HSV-1 là nguyên nhân chính gây viêm não ở người lớn và trẻ em, HSV-2 là nguyên nhân chính ở trẻ sơ sinh và những người suy giảm miễn dịch.
Hầu hết bệnh nhân HSE đều bị suy giảm ý thức và trạng thái tinh thần, biểu hiện bằng tình trạng lú lẫn và thay đổi tính cách. Phát hiện thấy số lượng tế bào bạch cầu tăng lên trong dịch não tủy của bệnh nhân, nhưng không có vi khuẩn hoặc nấm gây bệnh. Đồng thời, bệnh nhân thường bị sốt và đôi khi lên cơn co giật.
Khi bệnh tiến triển, những thay đổi về hoạt động điện ban đầu xuất hiện ở một thùy thái dương và sau đó lan sang thùy thái dương còn lại sau 7 đến 10 ngày.
Các xét nghiệm hình ảnh như CT hoặc MRI sẽ cho thấy những thay đổi đặc trưng ở thùy thái dương. Sau khi các triệu chứng đầu tiên xuất hiện, người bệnh có thể mất khứu giác và gặp khó khăn khi đọc, viết hoặc giao tiếp bằng lời nói. Để xác nhận, cần phải xét nghiệm dịch não tủy thông qua chọc dịch não tủy để phát hiện sự hiện diện của vi-rút.
Viêm não do virus herpes simplex cũng có thể gây ra phản ứng miễn dịch thứ phát của viêm não kháng thụ thể NMDA, xảy ra ở khoảng 30% bệnh nhân HSE và có tác động đáng kể đến quá trình phục hồi nhận thức thần kinh.
Dịch tễ họcTỷ lệ mắc viêm não HSV-1 hàng năm là khoảng 2 đến 4 trường hợp trên một triệu dân, cho thấy rằng mặc dù hiếm gặp nhưng cần phải nâng cao nhận thức và nghiên cứu rộng rãi để hiểu được tác động của nó.
Sinh lý bệnhHSE được cho là do vi-rút xâm nhập vào não từ vị trí ngoại vi trên khuôn mặt thông qua các sợi trục thần kinh trong tuyến nước bọt. Loại virus này nằm im trong các hạch thần kinh của dây thần kinh sinh ba, và lý do tại sao nó tái hoạt động và cách nó xâm nhập vào não vẫn chưa được làm rõ, mặc dù có bằng chứng cho thấy những thay đổi trong hệ thống miễn dịch có thể liên quan đến căng thẳng.
Chẩn đoán HSE thường yêu cầu chụp CT não (có hoặc không có thuốc cản quang) để loại trừ tình trạng tăng áp lực nội sọ đáng kể, phù não tắc nghẽn hoặc ảnh hưởng của khối u. Chụp MRI não có thể cho thấy cường độ tín hiệu T2 tăng lên ở vùng trán thái dương, chỉ ra tình trạng viêm não do virus (HSV).
Sự đối đãiViêm não do HSV chủ yếu được điều trị bằng acyclovir tiêm tĩnh mạch liều cao, 10 mg/kg (đối với người lớn) trong hơn 1 giờ để tránh tổn thương thận. Khoảng 70% trường hợp mắc bệnh HSE nếu không được điều trị sẽ nhanh chóng tử vong; những người sống sót thường bị tổn thương thần kinh nghiêm trọng. Ngay cả khi được điều trị, HSE vẫn gây tử vong ở một phần ba số trường hợp và hơn một nửa số người sống sót sẽ bị tổn thương thần kinh lâu dài.
Hai mươi phần trăm bệnh nhân được điều trị phục hồi tổn thương nhẹ, trong khi chỉ có 2,5 phần trăm bệnh nhân sống sót không được điều trị phục hồi hoàn toàn chức năng não bình thường.
Nhiều trường hợp mất trí nhớ liên quan đến HSE đã được ghi nhận trong tài liệu khoa học. Điều trị sớm nhất là 48 giờ sau khi các triệu chứng bắt đầu sẽ làm tăng khả năng phục hồi tốt, nhưng hiếm khi gặp trường hợp tái phát trong vòng vài tuần đến vài tháng sau khi điều trị. Bằng chứng ban đầu cho thấy tình trạng viêm bất thường do virus herpes simplex gây ra có thể dẫn đến tình trạng viêm hạt ở não, có thể điều trị bằng steroid.
Phần kết luận Mặc dù viêm não do virus herpes simplex không lây nhiễm nhưng không nên đánh giá thấp mức độ nguy hiểm tiềm ẩn của nó vì có nhiều loại virus khác cũng có thể gây ra các triệu chứng viêm não tương tự, thường tương đối nhẹ. Tình trạng này khiến mọi người tự hỏi, tại sao loại virus này có thể ẩn náu trong cơ thể con người lâu như vậy mà vẫn có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng bất cứ lúc nào?