Chính sách giáo dục bao gồm các nguyên tắc và quyết định chính sách ảnh hưởng đến lĩnh vực giáo dục, bao gồm luật pháp và quy định ảnh hưởng đến hoạt động của hệ thống giáo dục. Quản lý giáo dục ở Hoa Kỳ chủ yếu là trách nhiệm chung của chính quyền địa phương, tiểu bang và liên bang, với mức độ phân công lao động và hợp tác khác nhau ở các cấp độ khác nhau. Nhiều nhà phân tích xem chính sách giáo dục là một phần của kỹ thuật xã hội. Giáo dục diễn ra dưới nhiều hình thức và bao gồm nhiều mục đích và thể chế khác nhau, từ các trung tâm giáo dục trẻ nhỏ đến các trường dạy từ mẫu giáo đến lớp 12, và giáo dục sau đại học ở mọi cấp độ đại học. Ở những cơ sở này, mục tiêu giáo dục ảnh hưởng trực tiếp đến việc xây dựng chính sách giáo dục.
Các vấn đề trong việc phát triển chính sách giáo dục ảnh hưởng đến học sinh ở mọi lứa tuổi và bao gồm quy mô trường học, quy mô lớp học, lựa chọn trường học, tư nhân hóa trường học, thực thi pháp luật trong trường học, chính sách phân luồng, lựa chọn giáo viên, giáo dục và công nhận, v.v.
Chính sách giáo dục cũng cần giải quyết những thách thức trong giáo dục đại học, chẳng hạn như giáo dục sinh viên không có giấy tờ, tính khả dụng của giáo dục giới tính và việc phân bổ viện trợ liên bang cho sinh viên. Phân tích chính sách giáo dục nhằm trả lời các câu hỏi về mục đích của giáo dục, mục tiêu xã hội và cá nhân, phương tiện để đạt được các mục tiêu đó và các công cụ để đo lường thành công hay thất bại. Nghiên cứu này thường được tiến hành trên nhiều lĩnh vực và tổ chức học thuật khác nhau, bao gồm giáo dục, chính sách công, tâm lý học, kinh tế và xã hội học.
Trong 30 năm qua, sự tham gia của các nhà hoạch định chính sách giáo dục Hoa Kỳ đã dần tăng lên ở cả cấp tiểu bang và liên bang. Theo Tu chính án thứ Mười của Hiến pháp Hoa Kỳ, chính quyền tiểu bang có thẩm quyền chính về giáo dục và phần lớn ngân sách giáo dục do chính quyền tiểu bang chi trả, với một tỷ lệ tương đối nhỏ trong ngân sách liên bang được phân bổ cho giáo dục. Theo thời gian, chính quyền liên bang tiếp tục phát triển vai trò của mình thông qua chính sách giáo dục liên bang có ảnh hưởng đến việc đánh giá và tài trợ giáo dục. Ví dụ, Đạo luật Giáo dục Quốc phòng năm 1958 được thành lập nhằm tăng nguồn tài trợ liên bang cho các trường học, trong khi Đánh giá Tiến độ Giáo dục Quốc gia chịu trách nhiệm theo dõi và so sánh thành tích học tập của học sinh trên khắp các tiểu bang.
Tính phức tạp của cải cách giáo dục thường được ví như một "mạng lưới rối rắm" vì thẩm quyền giáo dục bị phân tán và chồng chéo ở cấp liên bang, tiểu bang và địa phương, dẫn đến tình trạng quản lý kém hiệu quả.
So với các quốc gia OECD khác, quản lý giáo dục ở Hoa Kỳ được phân cấp nhiều hơn, với phần lớn quyền tự chủ tập trung ở các tiểu bang và khu vực trường học. Tình huống này xuất phát từ việc công dân Mỹ nhấn mạnh vào quyền cá nhân và lo ngại về sự can thiệp quá mức của chính quyền liên bang. Theo báo cáo từ Trung tâm Giáo dục và Kinh tế Quốc gia, hệ thống giáo dục Hoa Kỳ không được phối hợp và cũng không có khả năng cải thiện.
Chính sách dành cho giáo viên là chính sách giáo dục giải quyết các vấn đề như chuẩn bị, tuyển dụng và giữ chân các nhà giáo dục. Chính sách giáo viên phải được định hướng bởi tầm nhìn chung và đặc điểm của chính sách giáo dục và phải tập trung vào tính chiến lược, toàn diện, khả thi, bền vững và phù hợp với bối cảnh. Một chính sách toàn diện cho giáo viên phải bao gồm tất cả các mục tiêu, thách thức chính, cơ chế tài trợ và nguồn nhân lực cần thiết để đạt được mục tiêu tiếp cận giáo dục chất lượng toàn dân.
Chín chiều hướng chính là cần thiết trong một chính sách toàn diện về giáo viên: tuyển dụng và giữ chân giáo viên, đào tạo giáo viên (ban đầu và liên tục), phân bổ, cơ cấu/con đường sự nghiệp, việc làm và điều kiện làm việc của giáo viên, phần thưởng và tiền lương cho giáo viên, tiêu chuẩn giáo viên, giáo viên trách nhiệm giải trình và quản lý nhà trường.
Để thúc đẩy bình đẳng giới trong giáo dục, dữ liệu và bằng chứng chất lượng và kịp thời là điều cần thiết cho việc phát triển, lập kế hoạch và thực hiện chính sách. Dữ liệu như vậy có thể giúp các quốc gia xác định và phân tích các mô hình và xu hướng giới, đồng thời lập kế hoạch và phân bổ nguồn lực tốt hơn để giải quyết bất bình đẳng giới. Trong khi khuôn khổ giám sát SDG 4 là một bước tiến trong quá trình chính sách, một khuôn khổ giám sát bình đẳng giới toàn diện vẫn cần phải tính đến nhiều yếu tố, bao gồm các chuẩn mực xã hội và giới, luật và chính sách giáo dục, phân bổ nguồn lực và phân biệt đối xử trong giảng dạy và học tập. định dạng.
Khi các chính sách giáo dục tiếp tục phát triển, hệ thống giáo dục Hoa Kỳ sẽ thay đổi như thế nào trong tương lai? Chúng ta có thể chuẩn bị cho điều này như thế nào?