Trong lý thuyết độ phức tạp tính toán, các mạch số học được coi là mô hình chuẩn cho các đa thức tính toán. Nguyên tắc cơ bản của mô hình này là một mạch số học hoạt động thông qua các nút, có thể là các biến hoặc số và cho phép tính toán cộng và nhân. Trong khuôn khổ như vậy, chúng ta có thể hiểu sâu hơn về độ phức tạp của đa thức tính toán. Vậy cách tốt nhất để thực hiện phép tính này là gì?
Câu hỏi cơ bản của mạch số học là "Cách hiệu quả nhất để tính một đa thức cụ thể là gì?"
Các mạch số học tồn tại dưới dạng đồ thị tuần hoàn có hướng (DAG). Mỗi nút không được nút khác trỏ tới được gọi là "cổng đầu vào" và chúng được gắn nhãn là biến hoặc thành phần của miền. Các cổng khác được chia thành các cổng cộng và nhân dựa trên loại hoạt động của chúng. Công thức số học đề cập đến một mạch trong đó bậc ngoài của mỗi cổng là 1 và cấu trúc đồ họa trở thành cây định hướng.
Đo lường độ phức tạp của mạch số học bao gồm hai thước đo cơ bản: kích thước và độ sâu. Kích thước của một mạch là số lượng cổng trong đó, trong khi độ sâu là đường dẫn dài nhất trong mạch. Để xem một ví dụ cụ thể, giả sử có một mạch có kích thước là sáu và độ sâu là hai. Cấu trúc như vậy tính toán đa thức được đánh dấu bởi cổng đầu vào thông qua một quy trình cụ thể và tính toán kết quả thông qua các phép toán cổng cộng và cổng nhân tương ứng.
Phương pháp tính toán của mạch số học là tính đa thức được đánh dấu thông qua cổng đầu vào, sau đó sử dụng các cổng cộng và nhân tương ứng để thực hiện các phép toán phức tạp hơn.
Trong nghiên cứu về độ phức tạp của các đa thức tính toán, việc tìm ra mạch phù hợp là rất quan trọng. Kết quả của loại công việc này có thể được chia thành giới hạn trên và dưới. Giới hạn trên liên quan đến việc tìm một mạch có thể tính toán một đa thức cụ thể, cho thấy giới hạn trên về độ phức tạp tính toán của đa thức đó trong khi giới hạn dưới yêu cầu chứng minh rằng không có mạch nào khác có thể tính toán nhanh hơn mạch được đề xuất, điều này thường khó khăn hơn; . nhiệm vụ tình dục.
Ví dụ: thuật toán của Strassen thực hiện phép nhân ma trận với kích thước xấp xỉ n²,807, đây là một sự tối ưu hóa đáng kể so với độ phức tạp n³ truyền thống. Những người khác, chẳng hạn như Berkowitz, cũng đã đề xuất các cách tính toán hiệu quả các định thức và đa thức bằng vĩnh viễn với các mạch có kích thước đa thức. Những kết quả nghiên cứu này chắc chắn cung cấp một góc nhìn toàn diện hơn về thiết kế và phương pháp tính toán của các mạch số học.
Trong quá trình tính toán đa thức, các chứng minh giới hạn dưới được biết hiện nay vẫn còn hạn chế và trọng tâm nghiên cứu chính là khám phá giới hạn dưới của đa thức bậc nhỏ.
Một trong những bài toán mở trong mạch số học là bài toán P so với NP, và cái gọi là bài toán VP so với VNP là "sự tương tự đại số" của nó. Trong đó, VP đại diện cho lớp đa thức có mạch đa thức, còn VNP là lớp chứa các đa thức liên quan dùng để chứng minh khả năng tính toán hiệu quả của một số đa thức nhất định.
Khái niệm cơ bản của sự tồn tại này nằm ở tính đầy đủ trong lý thuyết độ phức tạp. Nếu một đa thức là đa thức đầy đủ của một lớp nào đó thì có nghĩa là nếu đa thức đó tồn tại trong một mạch nhỏ thì các đa thức khác trong lớp này cũng có cùng một bản chất. Hiện tại chưa có kết luận nào chứng minh VP và VNP không bằng nhau và đây là một trong những chìa khóa cho các nghiên cứu trong tương lai.
Việc nghiên cứu các mạch số học không chỉ giới hạn ở cộng đồng toán học mà còn liên quan đến nhiều lĩnh vực điện toán, thách thức sự hiểu biết và hiểu biết của chúng ta về độ phức tạp tính toán.
Trong lĩnh vực tiến bộ này, các mạch số học cung cấp các công cụ toán học quan trọng giúp chúng ta hiểu được độ phức tạp tính toán của đa thức. Tuy nhiên, trong nghiên cứu trong tương lai, liệu chúng ta có thể thực sự khám phá được những bí mật sâu xa đằng sau những phép toán này hay không?